Vua cha đốt chùa gả hôn cho con gái với vị phò mã vì muốn bảo vệ bờ cõi giữ yên đất nước. Dù vậy, hai cô công chúa chọn cách quyết tâm một lòng hướng Phật tu hành. Cuối cùng cũng thành tựu chính mình; người đời sau mãi khắc ghi “Nhị vị Bồ Tát”.
Câu chuyện cảm động về hai vị Công chúa – con gái Vua Lý Thánh Tông
Tương truyền rằng, vào đời Lý Thánh Tông (1054-1072) Hoàng Hậu Thượng Dương sinh đôi được hai công chúa vào ngày mồng 6 tháng 2 âm lịch, chị là Lý Từ Thục, em là Lý Từ Huy.
Vua cha là tín đồ Phật giáo là người mộ đạo nên cả hai công chúa đã sớm ảnh hưởng của Phật giáo khi chớm tuổi trưởng thành, hai công chúa giác ngộ đời người ngắn ngủi vạn vật vô thường, chán cảnh lầu son gác tía, nguyện vọng một lòng xin vua cha và Hoàng Hậu cho phép xuất gia tu Phật.
Triều đình lúc đó chia nước thành các lộ, chia lộ cho các công chúa đến ở và cai quản dân chúng. Hai công chúa dừng chân trên đỉnh núi Trúc Lĩnh, huyện Thanh Trì ngắm nhìn mải mê cảnh vật nơi đây.
Thấy giữa đồng bằng nổi lên một ngọn núi hình đầu rồng, có rất nhiều tre trúc mọc chen chúc nhau. Phía mặt tiền có đường Thiên Lý, có sông Tô Lịch nhiễu quanh, bên cạnh lại có án tiền là Gò Đình Yến. Bên hữu núi trúc có nhiều ngọn gò nổi lên đều chầu về núi Trúc, trông tựa tràng phan, bảo cái. Hai công chúa nhận thấy nơi đây là đất “địa linh”, dân quanh vùng thì thuần hậu, bèn dừng chân trên đỉnh núi Trúc lập am tu hành.
Sau khi thị sát thấy dân chúng vẫn còn đói nghèo, hai công chúa cảm thương xin vua ban hơn nghìn mẫu ruộng đất đem chia hết cho dân 9 làng thuộc đất Nam Phù phía Nam huyện Thanh Trì ngày nay, và đã xuất hết tiền vàng nữ trang của mình để cấp vốn cho người nông dân khai khẩn ruộng đất, trồng lúa nước, trồng dâu nuôi tằm, làm các nghề thủ công, làm các loại bánh chưng, bánh nếp, bánh gai,…và dạy cho dân làng nghề đan thúng nổi tiếng còn lưu truyền đến cho đến ngày nay.
Đời sau có câu rằng:
“Hai con gái, Thánh Tông hoàng đế
Chị Từ Thục tuổi chỉ mười hai.
Em Từ Huy đóa hương nhài.
Ngại ngùng chỉ sợ đến vài năm sau
Lại lấy chồng, tuyến đầu biên giới.
Xa mẹ cha, ngại cả rừng xanh.
Thế nên xin được tu hành.
Vào chùa niệm Phật để thành ni sư”…
Vì để tiếp tục kế sách giữ gìn phên dậu, bảo vệ bờ cõi bằng hôn nhân mà các tiên đế đã đề ra nên Lý Thánh Tông không còn cách nào khác là cho gọi Từ Thục và Từ Huy về kinh để đi lấy chồng nơi biên cương.
Hai vị ni sư trăn trở suy nghĩ, nếu không về thì mang tội bất hiếu chống lệnh vua cha, mà về thì việc tu hành dang dở, hơn nữa cả hai đã một lòng hướng Phật, thực hành thiền định, hành Bồ Tát đạo, đã thấy hạnh nguyện viên mãn có thể cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, vì thế mà hai vị còn phân vân, do dự.
Hai vị công chúa quyết tâm một lòng hướng Phật mặc cho Vua cha đốt chùa ép gả hôn
Vua Lý Thánh Tông thấy việc chậm trễ nên trong phút nóng giận đã ra lệnh đốt chùa, hai vị ni sư được các tín đồ phật tử và dân chúng rước về làng Tự Khoát, trú trên núi Trúc Lĩnh.
Buồn vì hai người con, lại thêm giặc quấy nhiễu ở biên giới phía Nam nên nhà vua bị ốm nặng. Khi biết tin vua cha bị bệnh nặng, hai công chúa trở về kinh thăm rồi dùng bài thuốc quý chữa khỏi bệnh cho nhà vua.
Không lâu sau vua Lý Thánh Tông khỏe mạnh trở lại, tình hình trong nước lúc bấy giờ bắt đầu yên ổn. Thấy hai công chúa đã hướng Phật, “trước tòa sen trót nặng lời thề, dẫu sống chết cũng quy y tam bảo”, nhà vua cảm kích và hối hận không ép buộc nữa mà để hai con gái tiếp tục tu hành, vua còn ban lệnh dựng lại chùa Đông Phù, bởi thế chùa còn có tên là chùa Đền, hiện trong chùa có lưu giữ một số dấu tích bị đốt cháy…
Người đời lưu truyền như sau:
“Bởi có lệnh vua cha hối thúc
Phải lấy chồng châu mục Lạng Sơn
Còn đường nào tính thiệt hơn
Mối giường phên dậu bảo tồn quốc gia
Đã trù trừ vua cha nổi giận
Lý Thánh Tông hạ lệnh đốt chùa
Cho rằng dám trái lệnh vua
Dân làng Tự Khoát kịp vừa rước sư
Các tín đồ Đông Phù sang đón.
Hai vị về chỉnh đốn am thiền
Về sau chùa được xây lên
Nhà vua hối hận làm đền hơn xưa.
Hưng Phúc tự vua vừa cho chữ
Tên Nam Trù lưu giữ vua ban
Cả chùa Đỉnh Trúc xây thêm
Vua tặng chín xã tổng tên Nam Phù
Chùa Tự Khoát kể từ dạo ấy
Nhị bồ tát đã thấy tình dân
Hội chùa lễ rước tôn thân
Ni sư triều Lý nhiều vần thơ dâng:
“Lý đại hà niên song đế nữ
Liên đài thử địa lưỡng thần tiên”.
Hai vị cho dựng hai am thất dưới lòng đất bằng gỗ thông, tại cánh đồng hoa sen (nay thuộc làng Tè, Ninh Xá, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội) rồi cùng hai thị giả là Quỳnh Hoa và Quế Hoa xuống am đường nhập thất rồi di chúc cho dân trong vùng rằng:
“Sau bách nhật chúng tôi thu thần nhập diệt. Làng nào biết mà lấp cửa hang trước thì làng ấy được tôn là trưởng am đời đời”.
Đời sau sắc phong, suy tôn hai công chúa là Nhị vị Vương bà, Đại Thánh Bao phong Đại Bồ Tát Hồng liên tọa hạ, Thượng đẳng phúc thần, Lý Liễu Đoan trang Công chúa.
Qua đó cho thấy dưới áp lực gả hôn của Vua cha nhưng hai vị công chúa đã quên đi chính mình, không cầu danh, không cầu lợi, một lòng hướng đạo, trải lòng từ bi đến với người dân.
Không bon chen nơi sơn hào hải vị, ung dung sớm tối dưa cà, trân quý cơ duyên, trân quý sinh mệnh, tìm thấy con đường tu luyện mới là hạnh phúc nhất.
“Nhân sinh như mộng,
Chớp mắt hợp tan.
Hồng trần như mây,
Vạn niên trùng phùng”
(Nguồn: Vạn Điều Hay)